Sinh học Lớp 7: Tập tính kiếm ăn và tập tính sinh sản của loài vịt

Sinh học Lớp 7: Tập tính kiếm ăn và tập tính sinh sản của loài vịt, giúp em giải bài này ạ, em cảm ơn thầy cô và các bạn nhiều.

6 bình luận về “Sinh học Lớp 7: Tập tính kiếm ăn và tập tính sinh sản của loài vịt”

  1. Loài vịt thích ăn tạp, tiêu hoá mạnh và khả năng kiếm thức ăn tốt

    Vịt thuộc loài gia cầm thích ăn tạp, có thể lợi dụng các loại thức ăn của gà, của ngỗng.
    Ngoài các thức ăn có sẵn của các loài gia cầm thì vịt còn thường bắt các loại côn trùng, chuồng chuồn, cá nhỏ, ốc nước ngọt hay những con tôm nhỏ hay các động vật khác, đặc biệt là ốc nước ngọt hay vỏ sò thì có sự tiêu hoá đặc trưng.
    Sau khi kiếm thức ăn thì vịt sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và đẻ trứng. Tuy nhiên, vị giác của vịt không phát triển nên yêu cầu của chúng đối với khẩu vị không cao, năng lực phân biệt thức ăn không tốt, chúng thường coi những vật lạ khác thành thức ăn.
    Do đó, trong gia đoạn nuôi vịt có thể có vịt ăn cỏ, thường chia đoạn dài khoảng 5 – 6 mm, không để vịt non ăn nhầm thức ăn mà ảnh hưởng đến việc sinh trưởng và phát dục của vịt.

    Vịt là loài sinh trưởng, phát dục nhanh, tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao, tỷ lệ giết mổ cao

    Loài vịt sinh trưởng phát dục nhanh:
    Giống với các gia cầm khác, sự trao đổi chất của vịt rất mạnh, hơn nữa lại hoàn thiện, sự sinh trưởng của loài vịt so với các loài gia cầm khác nhanh nên khi được ăn đầy đủ, lượng nước bình thường, dưới điều kiện được chăm sóc tốt, thì nuôi trong vòng 40-45 ngày, vịt có thể đạt từ 2,75 – 3,5 kg, gấp 60-70 lần trọng lượng lúc ban đầu. Lúc này tốc độ sinh trưởng của vịt cao hơn so với gà.
    Tỷ lệ chuyển hoá thực ăn của vịt cao:
    Thực tính của vịt lớn, nên vịt cần thức ăn nhiều, lượng trứng của vịt trong một giai đoạn để trứng có thể đạt 300 quả, trong 5 tuần vịt có thể đạt tỉ lệ trọng lượng 2,29 – 2,3 kg; 7 tuần tuổi có thể đạt tỷ lệ trọng lượng 2,88 – 3 kg.
    Nếu như nuôi dưỡng vịt theo cách kết hợp chăn thả và cho vịt ăn thức ăn thì vịt có thể kiếm được lượng lớn thức ăn từ tự nhiên, do đó giảm giá thành nuôi vịt xuống.
    Tỷ lệ giết mổ cao:
    Tỷ lệ giết mổ của vịt cao, tỷ lệ giết thông thường đạt 85-90%, tỷ lệ sau khi làm sạch hoàn toàn đạt 75-80%, trong đó hàm lượng thức ăn chiếm khoảng trên 65% trọng lượng của vịt.
    Sau thời gian phát dục, trong cơ thể vịt và dưới lớp da có lượng mỡ lớn. Gan vịt rất to, tăng mạnh, ví dụ ở một số loại vịt sau 7 tháng vỗ béo thì bình quân gan đạt 229,24 g, lớn nhất đạt 455 g.
    Tính năng phát dục của vịt sớm và tỷ lệ đẻ lớn:
    Tính phát dục của loài vịt sớm và tỉ lệ trứng rất cao. Đối với vịt nuôi từ 100 – 110 ngày thì có thể thành thục, nhưng lấy thịt thì tương đối muộn, ví dụ vịt Bắc Kinh cần 150 – 180 ngày mới thành thục, còn vịt đồng thì yêu cầu thời gian ngắn hơn.
    Vịt là loài thuỷ cầm có sự phát dục rất nhanh so với các loài gia cầm nuôi trong nhà, thông thường trong giai đoạn đẻ trứng, vịt có thể đẻ được 280 đến 300 quả, cho nên 1 con vịt cái trong 1 năm có thể đẻ được trên dưới 200 quả.
    Còn vịt dùng để thịt mỗi năm có thể đẻ 230 đến 250 quả, 1 con vịt cái dùng làm vịt mẹ mỗi năm có thể ấp được 160 đến 180 con.
    Tuy năng lực phối hợp này của vịt đực không bằng gà, nhưng sự biểu hiện tính giao phối không rõ ràng lắm, sự giao phối và đẻ trứng không chịu sự ảnh hưởng của mùa.
    1 con vịt đực có thể giao phối với 20 – 30 con vịt cái, dưới điều kiện được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì tỷ lệ tinh có thể đạt trên 90%.

  2. Loài vịt thích ăn tạp, tiêu hoá mạnh và khả năng kiếm thức ăn tốt
    Vịt thuộc loài gia cầm thích ăn tạp, có thể lợi dụng các loại thức ăn của gà, của ngỗng.
    Ngoài các thức ăn có sẵn của các loài gia cầm thì vịt còn thường bắt các loại côn trùng, chuồng chuồn, cá nhỏ, ốc nước ngọt hay những con tôm nhỏ hay các động vật khác, đặc biệt là ốc nước ngọt hay vỏ sò thì có sự tiêu hoá đặc trưng.
    Sau khi kiếm thức ăn thì vịt sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và đẻ trứng. Tuy nhiên, vị giác của vịt không phát triển nên yêu cầu của chúng đối với khẩu vị không cao, năng lực phân biệt thức ăn không tốt, chúng thường coi những vật lạ khác thành thức ăn.
    Do đó, trong gia đoạn nuôi vịt có thể có vịt ăn cỏ, thường chia đoạn dài khoảng 5 – 6 mm, không để vịt non ăn nhầm thức ăn mà ảnh hưởng đến việc sinh trưởng và phát dục của vịt.
    Vịt là loài sinh trưởng, phát dục nhanh, tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao, tỷ lệ giết mổ cao
    Loài vịt sinh trưởng phát dục nhanh:
    Giống với các gia cầm khác, sự trao đổi chất của vịt rất mạnh, hơn nữa lại hoàn thiện, sự sinh trưởng của loài vịt so với các loài gia cầm khác nhanh nên khi được ăn đầy đủ, lượng nước bình thường, dưới điều kiện được chăm sóc tốt, thì nuôi trong vòng 40-45 ngày, vịt có thể đạt từ 2,75 – 3,5 kg, gấp 60-70 lần trọng lượng lúc ban đầu. Lúc này tốc độ sinh trưởng của vịt cao hơn so với gà.
    Tỷ lệ chuyển hoá thực ăn của vịt cao:
    Thực tính của vịt lớn, nên vịt cần thức ăn nhiều, lượng trứng của vịt trong một giai đoạn để trứng có thể đạt 300 quả, trong 5 tuần vịt có thể đạt tỉ lệ trọng lượng 2,29 – 2,3 kg; 7 tuần tuổi có thể đạt tỷ lệ trọng lượng 2,88 – 3 kg.
    Nếu như nuôi dưỡng vịt theo cách kết hợp chăn thả và cho vịt ăn thức ăn thì vịt có thể kiếm được lượng lớn thức ăn từ tự nhiên, do đó giảm giá thành nuôi vịt xuống.
    Tỷ lệ giết mổ cao:
    Tỷ lệ giết mổ của vịt cao, tỷ lệ giết thông thường đạt 85-90%, tỷ lệ sau khi làm sạch hoàn toàn đạt 75-80%, trong đó hàm lượng thức ăn chiếm khoảng trên 65% trọng lượng của vịt.
    Sau thời gian phát dục, trong cơ thể vịt và dưới lớp da có lượng mỡ lớn. Gan vịt rất to, tăng mạnh, ví dụ ở một số loại vịt sau 7 tháng vỗ béo thì bình quân gan đạt 229,24 g, lớn nhất đạt 455 g.
    Tính năng phát dục của vịt sớm và tỷ lệ đẻ lớn:
    Tính phát dục của loài vịt sớm và tỉ lệ trứng rất cao. Đối với vịt nuôi từ 100 – 110 ngày thì có thể thành thục, nhưng lấy thịt thì tương đối muộn, ví dụ vịt Bắc Kinh cần 150 – 180 ngày mới thành thục, còn vịt đồng thì yêu cầu thời gian ngắn hơn.
    Vịt là loài thuỷ cầm có sự phát dục rất nhanh so với các loài gia cầm nuôi trong nhà, thông thường trong giai đoạn đẻ trứng, vịt có thể đẻ được 280 đến 300 quả, cho nên 1 con vịt cái trong 1 năm có thể đẻ được trên dưới 200 quả.
    Còn vịt dùng để thịt mỗi năm có thể đẻ 230 đến 250 quả, 1 con vịt cái dùng làm vịt mẹ mỗi năm có thể ấp được 160 đến 180 con.
    Tuy năng lực phối hợp này của vịt đực không bằng gà, nhưng sự biểu hiện tính giao phối không rõ ràng lắm, sự giao phối và đẻ trứng không chịu sự ảnh hưởng của mùa.
    1 con vịt đực có thể giao phối với 20 – 30 con vịt cái, dưới điều kiện được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì tỷ lệ tinh có thể đạt trên 90%.

  3. Loài vịt thích ăn tạp, tiêu hoá mạnh và khả năng kiếm thức ăn tốtVịt thuộc loài gia cầm thích ăn tạp, có thể lợi dụng các loại thức ăn của gà, của ngỗng.Ngoài các thức ăn có sẵn của các loài gia cầm thì vịt còn thường bắt các loại côn trùng, chuồng chuồn, cá nhỏ, ốc nước ngọt hay những con tôm nhỏ hay các động vật khác, đặc biệt là ốc nước ngọt hay vỏ sò thì có sự tiêu hoá đặc trưng.Sau khi kiếm thức ăn thì vịt sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và đẻ trứng. Tuy nhiên, vị giác của vịt không phát triển nên yêu cầu của chúng đối với khẩu vị không cao, năng lực phân biệt thức ăn không tốt, chúng thường coi những vật lạ khác thành thức ăn.Do đó, trong gia đoạn nuôi vịt có thể có vịt ăn cỏ, thường chia đoạn dài khoảng 5 – 6 mm, không để vịt non ăn nhầm thức ăn mà ảnh hưởng đến việc sinh trưởng và phát dục của vịt.Vịt là loài sinh trưởng, phát dục nhanh, tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao, tỷ lệ giết mổ caoLoài vịt sinh trưởng phát dục nhanh:Giống với các gia cầm khác, sự trao đổi chất của vịt rất mạnh, hơn nữa lại hoàn thiện, sự sinh trưởng của loài vịt so với các loài gia cầm khác nhanh nên khi được ăn đầy đủ, lượng nước bình thường, dưới điều kiện được chăm sóc tốt, thì nuôi trong vòng 40-45 ngày, vịt có thể đạt từ 2,75 – 3,5 kg, gấp 60-70 lần trọng lượng lúc ban đầu. Lúc này tốc độ sinh trưởng của vịt cao hơn so với gà.Tỷ lệ chuyển hoá thực ăn của vịt cao:Thực tính của vịt lớn, nên vịt cần thức ăn nhiều, lượng trứng của vịt trong một giai đoạn để trứng có thể đạt 300 quả, trong 5 tuần vịt có thể đạt tỉ lệ trọng lượng 2,29 – 2,3 kg; 7 tuần tuổi có thể đạt tỷ lệ trọng lượng 2,88 – 3 kg.Nếu như nuôi dưỡng vịt theo cách kết hợp chăn thả và cho vịt ăn thức ăn thì vịt có thể kiếm được lượng lớn thức ăn từ tự nhiên, do đó giảm giá thành nuôi vịt xuống.Tỷ lệ giết mổ cao:Tỷ lệ giết mổ của vịt cao, tỷ lệ giết thông thường đạt 85-90%, tỷ lệ sau khi làm sạch hoàn toàn đạt 75-80%, trong đó hàm lượng thức ăn chiếm khoảng trên 65% trọng lượng của vịt.Sau thời gian phát dục, trong cơ thể vịt và dưới lớp da có lượng mỡ lớn. Gan vịt rất to, tăng mạnh, ví dụ ở một số loại vịt sau 7 tháng vỗ béo thì bình quân gan đạt 229,24 g, lớn nhất đạt 455 g.Tính năng phát dục của vịt sớm và tỷ lệ đẻ lớn:Tính phát dục của loài vịt sớm và tỉ lệ trứng rất cao. Đối với vịt nuôi từ 100 – 110 ngày thì có thể thành thục, nhưng lấy thịt thì tương đối muộn, ví dụ vịt Bắc Kinh cần 150 – 180 ngày mới thành thục, còn vịt đồng thì yêu cầu thời gian ngắn hơn.Vịt là loài thuỷ cầm có sự phát dục rất nhanh so với các loài gia cầm nuôi trong nhà, thông thường trong giai đoạn đẻ trứng, vịt có thể đẻ được 280 đến 300 quả, cho nên 1 con vịt cái trong 1 năm có thể đẻ được trên dưới 200 quả.Còn vịt dùng để thịt mỗi năm có thể đẻ 230 đến 250 quả, 1 con vịt cái dùng làm vịt mẹ mỗi năm có thể ấp được 160 đến 180 con.Tuy năng lực phối hợp này của vịt đực không bằng gà, nhưng sự biểu hiện tính giao phối không rõ ràng lắm, sự giao phối và đẻ trứng không chịu sự ảnh hưởng của mùa.1 con vịt đực có thể giao phối với 20 – 30 con vịt cái, dưới điều kiện được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì tỷ lệ tinh có thể đạt trên 90%.

  4. Loài vịt thích ăn tạp, tiêu hoá mạnh và khả năng kiếm thức ăn tốt

    Vịt thuộc loài gia cầm thích ăn tạp, có thể lợi dụng các loại thức ăn của gà, của ngỗng.
    Ngoài các thức ăn có sẵn của các loài gia cầm thì vịt còn thường bắt các loại côn trùng, chuồng chuồn, cá nhỏ, ốc nước ngọt hay những con tôm nhỏ hay các động vật khác, đặc biệt là ốc nước ngọt hay vỏ sò thì có sự tiêu hoá đặc trưng.
    Sau khi kiếm thức ăn thì vịt sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và đẻ trứng. Tuy nhiên, vị giác của vịt không phát triển nên yêu cầu của chúng đối với khẩu vị không cao, năng lực phân biệt thức ăn không tốt, chúng thường coi những vật lạ khác thành thức ăn.
    Do đó, trong gia đoạn nuôi vịt có thể có vịt ăn cỏ, thường chia đoạn dài khoảng 5 – 6 mm, không để vịt non ăn nhầm thức ăn mà ảnh hưởng đến việc sinh trưởng và phát dục của vịt.

    Vịt là loài sinh trưởng, phát dục nhanh, tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao, tỷ lệ giết mổ cao

    Loài vịt sinh trưởng phát dục nhanh:
    Giống với các gia cầm khác, sự trao đổi chất của vịt rất mạnh, hơn nữa lại hoàn thiện, sự sinh trưởng của loài vịt so với các loài gia cầm khác nhanh nên khi được ăn đầy đủ, lượng nước bình thường, dưới điều kiện được chăm sóc tốt, thì nuôi trong vòng 40-45 ngày, vịt có thể đạt từ 2,75 – 3,5 kg, gấp 60-70 lần trọng lượng lúc ban đầu. Lúc này tốc độ sinh trưởng của vịt cao hơn so với gà.
    Tỷ lệ chuyển hoá thực ăn của vịt cao:
    Thực tính của vịt lớn, nên vịt cần thức ăn nhiều, lượng trứng của vịt trong một giai đoạn để trứng có thể đạt 300 quả, trong 5 tuần vịt có thể đạt tỉ lệ trọng lượng 2,29 – 2,3 kg; 7 tuần tuổi có thể đạt tỷ lệ trọng lượng 2,88 – 3 kg.
    Nếu như nuôi dưỡng vịt theo cách kết hợp chăn thả và cho vịt ăn thức ăn thì vịt có thể kiếm được lượng lớn thức ăn từ tự nhiên, do đó giảm giá thành nuôi vịt xuống.
    Tỷ lệ giết mổ cao:
    Tỷ lệ giết mổ của vịt cao, tỷ lệ giết thông thường đạt 85-90%, tỷ lệ sau khi làm sạch hoàn toàn đạt 75-80%, trong đó hàm lượng thức ăn chiếm khoảng trên 65% trọng lượng của vịt.
    Sau thời gian phát dục, trong cơ thể vịt và dưới lớp da có lượng mỡ lớn. Gan vịt rất to, tăng mạnh, ví dụ ở một số loại vịt sau 7 tháng vỗ béo thì bình quân gan đạt 229,24 g, lớn nhất đạt 455 g.
    Tính năng phát dục của vịt sớm và tỷ lệ đẻ lớn:
    Tính phát dục của loài vịt sớm và tỉ lệ trứng rất cao. Đối với vịt nuôi từ 100 – 110 ngày thì có thể thành thục, nhưng lấy thịt thì tương đối muộn, ví dụ vịt Bắc Kinh cần 150 – 180 ngày mới thành thục, còn vịt đồng thì yêu cầu thời gian ngắn hơn.
    Vịt là loài thuỷ cầm có sự phát dục rất nhanh so với các loài gia cầm nuôi trong nhà, thông thường trong giai đoạn đẻ trứng, vịt có thể đẻ được 280 đến 300 quả, cho nên 1 con vịt cái trong 1 năm có thể đẻ được trên dưới 200 quả.
    Còn vịt dùng để thịt mỗi năm có thể đẻ 230 đến 250 quả, 1 con vịt cái dùng làm vịt mẹ mỗi năm có thể ấp được 160 đến 180 con.
    Tuy năng lực phối hợp này của vịt đực không bằng gà, nhưng sự biểu hiện tính giao phối không rõ ràng lắm, sự giao phối và đẻ trứng không chịu sự ảnh hưởng của mùa.
    1 con vịt đực có thể giao phối với 20 – 30 con vịt cái, dưới điều kiện được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì tỷ lệ tinh có thể đạt trên 90%.

  5. Loài vịt thích ăn tạp, tiêu hoá mạnh và khả năng kiếm thức ăn tốt
    Vịt thuộc loài gia cầm thích ăn tạp, có thể lợi dụng các loại thức ăn của gà, của ngỗng.
    Ngoài các thức ăn có sẵn của các loài gia cầm thì vịt còn thường bắt các loại côn trùng, chuồng chuồn, cá nhỏ, ốc nước ngọt hay những con tôm nhỏ hay các động vật khác, đặc biệt là ốc nước ngọt hay vỏ sò thì có sự tiêu hoá đặc trưng.
    Sau khi kiếm thức ăn thì vịt sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và đẻ trứng. Tuy nhiên, vị giác của vịt không phát triển nên yêu cầu của chúng đối với khẩu vị không cao, năng lực phân biệt thức ăn không tốt, chúng thường coi những vật lạ khác thành thức ăn.
    Do đó, trong gia đoạn nuôi vịt có thể có vịt ăn cỏ, thường chia đoạn dài khoảng 5 – 6 mm, không để vịt non ăn nhầm thức ăn mà ảnh hưởng đến việc sinh trưởng và phát dục của vịt.
    Vịt là loài sinh trưởng, phát dục nhanh, tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao, tỷ lệ giết mổ cao
    Loài vịt sinh trưởng phát dục nhanh:
    Giống với các gia cầm khác, sự trao đổi chất của vịt rất mạnh, hơn nữa lại hoàn thiện, sự sinh trưởng của loài vịt so với các loài gia cầm khác nhanh nên khi được ăn đầy đủ, lượng nước bình thường, dưới điều kiện được chăm sóc tốt, thì nuôi trong vòng 40-45 ngày, vịt có thể đạt từ 2,75 – 3,5 kg, gấp 60-70 lần trọng lượng lúc ban đầu. Lúc này tốc độ sinh trưởng của vịt cao hơn so với gà.
    Tỷ lệ chuyển hoá thực ăn của vịt cao:
    Thực tính của vịt lớn, nên vịt cần thức ăn nhiều, lượng trứng của vịt trong một giai đoạn để trứng có thể đạt 300 quả, trong 5 tuần vịt có thể đạt tỉ lệ trọng lượng 2,29 – 2,3 kg; 7 tuần tuổi có thể đạt tỷ lệ trọng lượng 2,88 – 3 kg.
    Nếu như nuôi dưỡng vịt theo cách kết hợp chăn thả và cho vịt ăn thức ăn thì vịt có thể kiếm được lượng lớn thức ăn từ tự nhiên, do đó giảm giá thành nuôi vịt xuống.
    Tỷ lệ giết mổ cao:
    Tỷ lệ giết mổ của vịt cao, tỷ lệ giết thông thường đạt 85-90%, tỷ lệ sau khi làm sạch hoàn toàn đạt 75-80%, trong đó hàm lượng thức ăn chiếm khoảng trên 65% trọng lượng của vịt.
    Sau thời gian phát dục, trong cơ thể vịt và dưới lớp da có lượng mỡ lớn. Gan vịt rất to, tăng mạnh, ví dụ ở một số loại vịt sau 7 tháng vỗ béo thì bình quân gan đạt 229,24 g, lớn nhất đạt 455 g.
    Tính năng phát dục của vịt sớm và tỷ lệ đẻ lớn:
    Tính phát dục của loài vịt sớm và tỉ lệ trứng rất cao. Đối với vịt nuôi từ 100 – 110 ngày thì có thể thành thục, nhưng lấy thịt thì tương đối muộn, ví dụ vịt Bắc Kinh cần 150 – 180 ngày mới thành thục, còn vịt đồng thì yêu cầu thời gian ngắn hơn.
    Vịt là loài thuỷ cầm có sự phát dục rất nhanh so với các loài gia cầm nuôi trong nhà, thông thường trong giai đoạn đẻ trứng, vịt có thể đẻ được 280 đến 300 quả, cho nên 1 con vịt cái trong 1 năm có thể đẻ được trên dưới 200 quả.
    Còn vịt dùng để thịt mỗi năm có thể đẻ 230 đến 250 quả, 1 con vịt cái dùng làm vịt mẹ mỗi năm có thể ấp được 160 đến 180 con.
    Tuy năng lực phối hợp này của vịt đực không bằng gà, nhưng sự biểu hiện tính giao phối không rõ ràng lắm, sự giao phối và đẻ trứng không chịu sự ảnh hưởng của mùa.
    1 con vịt đực có thể giao phối với 20 – 30 con vịt cái, dưới điều kiện được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì tỷ lệ tinh có thể đạt trên 90%.

  6. Loài vịt thích ăn tạp, tiêu hoá mạnh và khả năng kiếm thức ăn tốt

    Vịt thuộc loài gia cầm thích ăn tạp, có thể lợi dụng các loại thức ăn của gà, của ngỗng.
    Ngoài các thức ăn có sẵn của các loài gia cầm thì vịt còn thường bắt các loại côn trùng, chuồng chuồn, cá nhỏ, ốc nước ngọt hay những con tôm nhỏ hay các động vật khác, đặc biệt là ốc nước ngọt hay vỏ sò thì có sự tiêu hoá đặc trưng.
    Sau khi kiếm thức ăn thì vịt sẽ tăng tốc độ sinh trưởng và đẻ trứng. Tuy nhiên, vị giác của vịt không phát triển nên yêu cầu của chúng đối với khẩu vị không cao, năng lực phân biệt thức ăn không tốt, chúng thường coi những vật lạ khác thành thức ăn.
    Do đó, trong gia đoạn nuôi vịt có thể có vịt ăn cỏ, thường chia đoạn dài khoảng 5 – 6 mm, không để vịt non ăn nhầm thức ăn mà ảnh hưởng đến việc sinh trưởng và phát dục của vịt.

    Vịt là loài sinh trưởng, phát dục nhanh, tỷ lệ chuyển hoá thức ăn cao, tỷ lệ giết mổ cao

    Loài vịt sinh trưởng phát dục nhanh:
    Giống với các gia cầm khác, sự trao đổi chất của vịt rất mạnh, hơn nữa lại hoàn thiện, sự sinh trưởng của loài vịt so với các loài gia cầm khác nhanh nên khi được ăn đầy đủ, lượng nước bình thường, dưới điều kiện được chăm sóc tốt, thì nuôi trong vòng 40-45 ngày, vịt có thể đạt từ 2,75 – 3,5 kg, gấp 60-70 lần trọng lượng lúc ban đầu. Lúc này tốc độ sinh trưởng của vịt cao hơn so với gà.
    Tỷ lệ chuyển hoá thực ăn của vịt cao:
    Thực tính của vịt lớn, nên vịt cần thức ăn nhiều, lượng trứng của vịt trong một giai đoạn để trứng có thể đạt 300 quả, trong 5 tuần vịt có thể đạt tỉ lệ trọng lượng 2,29 – 2,3 kg; 7 tuần tuổi có thể đạt tỷ lệ trọng lượng 2,88 – 3 kg.
    Nếu như nuôi dưỡng vịt theo cách kết hợp chăn thả và cho vịt ăn thức ăn thì vịt có thể kiếm được lượng lớn thức ăn từ tự nhiên, do đó giảm giá thành nuôi vịt xuống.
    Tỷ lệ giết mổ cao:
    Tỷ lệ giết mổ của vịt cao, tỷ lệ giết thông thường đạt 85-90%, tỷ lệ sau khi làm sạch hoàn toàn đạt 75-80%, trong đó hàm lượng thức ăn chiếm khoảng trên 65% trọng lượng của vịt.
    Sau thời gian phát dục, trong cơ thể vịt và dưới lớp da có lượng mỡ lớn. Gan vịt rất to, tăng mạnh, ví dụ ở một số loại vịt sau 7 tháng vỗ béo thì bình quân gan đạt 229,24 g, lớn nhất đạt 455 g.
    Tính năng phát dục của vịt sớm và tỷ lệ đẻ lớn:
    Tính phát dục của loài vịt sớm và tỉ lệ trứng rất cao. Đối với vịt nuôi từ 100 – 110 ngày thì có thể thành thục, nhưng lấy thịt thì tương đối muộn, ví dụ vịt Bắc Kinh cần 150 – 180 ngày mới thành thục, còn vịt đồng thì yêu cầu thời gian ngắn hơn.
    Vịt là loài thuỷ cầm có sự phát dục rất nhanh so với các loài gia cầm nuôi trong nhà, thông thường trong giai đoạn đẻ trứng, vịt có thể đẻ được 280 đến 300 quả, cho nên 1 con vịt cái trong 1 năm có thể đẻ được trên dưới 200 quả.
    Còn vịt dùng để thịt mỗi năm có thể đẻ 230 đến 250 quả, 1 con vịt cái dùng làm vịt mẹ mỗi năm có thể ấp được 160 đến 180 con.
    Tuy năng lực phối hợp này của vịt đực không bằng gà, nhưng sự biểu hiện tính giao phối không rõ ràng lắm, sự giao phối và đẻ trứng không chịu sự ảnh hưởng của mùa.
    1 con vịt đực có thể giao phối với 20 – 30 con vịt cái, dưới điều kiện được chăm sóc nuôi dưỡng tốt thì tỷ lệ tinh có thể đạt trên 90%.

Viết một bình luận

TƯ VẤN TÌM GIA SƯ MIỄN PHÍ
TƯ VẤN TÌM GIA SƯ MIỄN PHÍ