Ngữ văn Lớp 7: "Vẻ đẹp của Qua Đèo Ngang là nét buồn trang nhã toát lên từ cảnh sắc thiên nhiên và của chính tâm hồn con người" Qua bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện Thanh Quan em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên, giúp em giải bài này ạ, em cảm ơn thầy cô và các bạn nhiều.
-
Thơ Nôm Đường luật trong văn học Việt Nam đạt đến một trình độ điêu luyện với những bài thơ nổi tiếng của hai nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Mỗi người, bằng những nét rất riêng, đã in đậm dâu ấn của mình trong lòng người đọc. Bên cạnh cái mạnh mẽ, sắc sảo, đầy cá tính của nữ sĩ họ Hồ là Bà Huyện Thanh Quan với những điệu buồn trang nhã, nhẹ nhàng, man mác mà đa diết thấm sâu. Với một số lượng ít ỏi các tác phẩm nhưng thơ của Bà Huyện lắng sâu, có sức ám ảnh, day đứt tâm can con người. Cùng với Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ, bài thơ Qua Đèo Ngang Xứng đáng được xem như một tác phẩm cổ điển của văn học nước nhà.Không gian chiều thường gợi buồn gợi nhớ. Chiều trong ca dao cũng thường trở đi trở lại với vẻ buồn, nó đồng điệu và bởi thế dễ để người ta giãi bày tâm sự, thổ lộ tâm tư :– Chiều chiều ra đứng ngõ sauTrông về quê mẹ ruột đau chín chiêu.– Chiều chiều lại nhớ chiều chiềuNhớ cô yếm đỏ dải điều thắt lưng– Chiều chiều ra đứng bờ aoTrông cả, cả lội, trông sao, sao mờ.Thôi Hiệu, nhà thơ Trung Quốc, cũng đã từng buồn nhớ quê hương trong một chiều sông nước mịt mờ sương khói:Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng aiQua Đèo Ngang có cảnh có tình, cảnh chiều tà hoang vắng và một nỗi buồn thầm lặng, cô đơn. Bà Huyện Thanh Quan dường như rất có duyên với những cảnh chiều:-Lối xưa xe ngựa hồn thu thảoNền cũ lâu đài bóng tịch dương-Chiều trời bảng lảng bóng hoảng hônTiếng ốc xa đưa vẳng trống đồnVà trong bài thơ này là một chiều qua Đèo Ngang. Hai câu đề mở ra cảnh chiều nơi đèo cao heo hút, hoang sơ :Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đả, lả chen hoa.Dừng chân trên đèo khi bóng chiều đã xế, cảnh tượng cây cỏ um tùm gợi một cảm giác ngao ngán, cái buồn đã bắt đầu xâm lấn vào hồn. Điệp từ ở câu thứ hai cực tả được cái hoang dại, rậm rạp choán ngợp không gian trong một cái nhìn gần. Tiếp đến, hai câu thực, với cái nhìn ở tầm xa, từ bên trên mà quan sát, khung cảnh chợt khiến ta bâng khuâng, nao nao buồn :Lom khom dưới núi, tiều vải chú,Lác đác bên sồng, chợ mấy nhà.Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Khuôn mẫu của thể thơ này đòi hỏi hai liên giữa (hai câu liền nhau) phải đối : câu 3 đôi với câu 4, câu 5 đối với câu 6. Chúng ta thấy một cặp đối ở hai câu thực : Lom khom / Lác đác, dưới núi / bên sông, tiều vài chú / chợ mấy nhà. Nằm trong sự cân đối ấy, hai từ vải và mây gợi vẻ thưa vắng, heo hút, buồn tẻ. Hai câu luận tiếp theo tác giả hé lộ những nỗi niềm :Nhớ nước đau lòng, con quốc quốcTiếng chim quốc quốc vẳng kêu nghe sao mà da diết, khắc khoải buồn thương. Chuyện xưa kể rằng vua nước Thục sau khi nhường ngôi cho vị tể tướng có tài trị thuỷ, lên ẩn cư tại núi Tây Sơn rồi qua đời, hồn biến thành chim đỗ quyên (chim quốc quốc), vào cữ tháng hai cho tới cuối xuân đầu hè thường cất tiếng kêu nghe ai oán, như tiếng gọi hồn nước cũ. Hai câu thơ này đối rất chỉnh : Nhớ nước / Thương nhà, đau lòng mỏi miệng, con quốc quốc / cái gia gia (theo nghĩa từ Hán Việt thì quốc = nước, gia = nhà, tác giả kín đáo bộc lộ tâm sự). Đèo Ngang vốn là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Bà Huyện sinh vào thời Nguyễn, chồng bà làm quan thời Nguyễn nhưng vốn gốc người Thăng Long Bắc Hà nên lưu luyến triều xưa (nhà Lê) cũng là điều dễ hiểu. Các từ láy ở hai liên giữa giàu sức gợi hình, gợi thanh và tạo âm hưởng (lom khom, lác đác, quốc quốc, gia già)- Hai câu kết:Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,Một mảnh tình riêng, ta với ta.Tả cảnh ngụ tình là thủ pháp hay được sử dung trong thơ cổ. Bài thơ này cũng đã cho ta thấy một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện, cảnh gợi buồn (bóng xê tả, tiều vài chú, chợ mấy nhà,..), có âm thanh nhưng chỉ càng thêm hoang vắng, khắc khoải, lòng người lại bâng khuâng hoài niệm,… tình và cảnh đan quyện vào nhau trong một điệu buồn hoang vắng, cô đơn. Nhưng phải đến những câu kết cái buồn xuyên suốt bài thơ mới bật ra thành những tiếng cảm thán, mang nặng nỗi u hoài không có ai chia sẻ. Một mảnh tình mong manh, riêng chiếc giữa cảnh trời, non, nước bao la càng khiến người ta cảm nhận sâu sắc cái cô độc hiện hữu, thấm thìa đến tận xương tuỷ. Nhịp điệu miên man như chính nỗi buồn nhớ miên man đến đây chợt ngưng đọng, ngắt nhịp 4/1/1/1 ở cuối câu thứ bảy tưa như một thoáng bồn chồn dừng chân.TA với TA, mình lại đối diện với chính mình, xúc cảm buồn đến đây đã mang một chiều sâu mới. Trong chiều muộn, giữa không gian mênh mông, chỉ mình ta hiểu ta, cảnh có buồn song không thể sẻ chia được nỗi niềm, cô đơn lại càng cô đơn, một sắc thái cô đơn mang đậm phong vị cổ điển.Vẻ đẹp của Qua Đèo Ngang là nét buồn trang nhã toát lên từ cảnh sắc thiên nhiên và của chính tâm hồn con người. Những cảm xúc đẹp đẽ mà chúng ta được thưởng thức chỉ có thể được nảy sinh từ một tâm hồn tao nha với một tình yêu quê hương đất nước nặng sâu.
-
Thơ Nôm Đường luật trong văn học Việt Nam đạt đến một trình độ điêu luyện với những bài thơ nổi tiếng của hai nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Mỗi người, bằng những nét rất riêng, đã in đậm dâu ấn của mình trong lòng người đọc. Bên cạnh cái mạnh mẽ, sắc sảo, đầy cá tính của nữ sĩ họ Hồ là Bà Huyện Thanh Quan với những điệu buồn trang nhã, nhẹ nhàng, man mác mà đa diết thấm sâu. Với một số lượng ít ỏi các tác phẩm nhưng thơ của Bà Huyện lắng sâu, có sức ám ảnh, day đứt tâm can con người. Cùng với Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long thành hoài cổ, bài thơ Qua Đèo Ngang Xứng đáng được xem như một tác phẩm cổ điển của văn học nước nhà.Không gian chiều thường gợi buồn gợi nhớ. Chiều trong ca dao cũng thường trở đi trở lại với vẻ buồn, nó đồng điệu và bởi thế dễ để người ta giãi bày tâm sự, thổ lộ tâm tư :– Chiều chiều ra đứng ngõ sauTrông về quê mẹ ruột đau chín chiêu.– Chiều chiều lại nhớ chiều chiềuNhớ cô yếm đỏ dải điều thắt lưng– Chiều chiều ra đứng bờ aoTrông cả, cả lội, trông sao, sao mờ.Thôi Hiệu, nhà thơ Trung Quốc, cũng đã từng buồn nhớ quê hương trong một chiều sông nước mịt mờ sương khói:Quê hương khuất bóng hoàng hônTrên sông khói sóng cho buồn lòng aiQua Đèo Ngang có cảnh có tình, cảnh chiều tà hoang vắng và một nỗi buồn thầm lặng, cô đơn. Bà Huyện Thanh Quan dường như rất có duyên với những cảnh chiều:-Lối xưa xe ngựa hồn thu thảoNền cũ lâu đài bóng tịch dương-Chiều trời bảng lảng bóng hoảng hônTiếng ốc xa đưa vẳng trống đồnVà trong bài thơ này là một chiều qua Đèo Ngang. Hai câu đề mở ra cảnh chiều nơi đèo cao heo hút, hoang sơ :Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,Cỏ cây chen đả, lả chen hoa.Dừng chân trên đèo khi bóng chiều đã xế, cảnh tượng cây cỏ um tùm gợi một cảm giác ngao ngán, cái buồn đã bắt đầu xâm lấn vào hồn. Điệp từ ở câu thứ hai cực tả được cái hoang dại, rậm rạp choán ngợp không gian trong một cái nhìn gần. Tiếp đến, hai câu thực, với cái nhìn ở tầm xa, từ bên trên mà quan sát, khung cảnh chợt khiến ta bâng khuâng, nao nao buồn :Lom khom dưới núi, tiều vải chú,Lác đác bên sồng, chợ mấy nhà.Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Khuôn mẫu của thể thơ này đòi hỏi hai liên giữa (hai câu liền nhau) phải đối : câu 3 đôi với câu 4, câu 5 đối với câu 6. Chúng ta thấy một cặp đối ở hai câu thực : Lom khom / Lác đác, dưới núi / bên sông, tiều vài chú / chợ mấy nhà. Nằm trong sự cân đối ấy, hai từ vải và mây gợi vẻ thưa vắng, heo hút, buồn tẻ. Hai câu luận tiếp theo tác giả hé lộ những nỗi niềm :Nhớ nước đau lòng, con quốc quốcTiếng chim quốc quốc vẳng kêu nghe sao mà da diết, khắc khoải buồn thương. Chuyện xưa kể rằng vua nước Thục sau khi nhường ngôi cho vị tể tướng có tài trị thuỷ, lên ẩn cư tại núi Tây Sơn rồi qua đời, hồn biến thành chim đỗ quyên (chim quốc quốc), vào cữ tháng hai cho tới cuối xuân đầu hè thường cất tiếng kêu nghe ai oán, như tiếng gọi hồn nước cũ. Hai câu thơ này đối rất chỉnh : Nhớ nước / Thương nhà, đau lòng mỏi miệng, con quốc quốc / cái gia gia (theo nghĩa từ Hán Việt thì quốc = nước, gia = nhà, tác giả kín đáo bộc lộ tâm sự). Đèo Ngang vốn là ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài. Bà Huyện sinh vào thời Nguyễn, chồng bà làm quan thời Nguyễn nhưng vốn gốc người Thăng Long Bắc Hà nên lưu luyến triều xưa (nhà Lê) cũng là điều dễ hiểu. Các từ láy ở hai liên giữa giàu sức gợi hình, gợi thanh và tạo âm hưởng (lom khom, lác đác, quốc quốc, gia già)- Hai câu kết:Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,Một mảnh tình riêng, ta với ta.Tả cảnh ngụ tình là thủ pháp hay được sử dung trong thơ cổ. Bài thơ này cũng đã cho ta thấy một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, điêu luyện, cảnh gợi buồn (bóng xê tả, tiều vài chú, chợ mấy nhà,..), có âm thanh nhưng chỉ càng thêm hoang vắng, khắc khoải, lòng người lại bâng khuâng hoài niệm,… tình và cảnh đan quyện vào nhau trong một điệu buồn hoang vắng, cô đơn. Nhưng phải đến những câu kết cái buồn xuyên suốt bài thơ mới bật ra thành những tiếng cảm thán, mang nặng nỗi u hoài không có ai chia sẻ. Một mảnh tình mong manh, riêng chiếc giữa cảnh trời, non, nước bao la càng khiến người ta cảm nhận sâu sắc cái cô độc hiện hữu, thấm thìa đến tận xương tuỷ. Nhịp điệu miên man như chính nỗi buồn nhớ miên man đến đây chợt ngưng đọng, ngắt nhịp 4/1/1/1 ở cuối câu thứ bảy tưa như một thoáng bồn chồn dừng chân.TA với TA, mình lại đối diện với chính mình, xúc cảm buồn đến đây đã mang một chiều sâu mới. Trong chiều muộn, giữa không gian mênh mông, chỉ mình ta hiểu ta, cảnh có buồn song không thể sẻ chia được nỗi niềm, cô đơn lại càng cô đơn, một sắc thái cô đơn mang đậm phong vị cổ điển.Vẻ đẹp của Qua Đèo Ngang là nét buồn trang nhã toát lên từ cảnh sắc thiên nhiên và của chính tâm hồn con người. Những cảm xúc đẹp đẽ mà chúng ta được thưởng thức chỉ có thể được nảy sinh từ một tâm hồn tao nha với một tình yêu quê hương đất nước nặng sâu.